Bệnh porphyrin gan cấp tính là một nhóm các bệnh di truyền hiếm gặp được đặc trưng bởi các đợt tấn công có khả năng đe dọa đến tính mạng và cơn đau mãn tính cản trở khả năng sống cuộc sống bình thường của họ.
Bệnh gan liên quan đến rượu là do uống quá nhiều rượu và là một bệnh phổ biến nhưng có thể phòng ngừa được. Đối với hầu hết mọi người, uống rượu vừa phải sẽ không dẫn đến bệnh.
Thiếu hụt Alpha-1 antitrypsin (Alpha-1) là nguyên nhân di truyền phổ biến nhất gây ra bệnh gan ở trẻ em. Người lớn cũng có thể bị ảnh hưởng bởi Alpha-1 và có thể mắc các bệnh về phổi như khí thũng cũng như các vấn đề về gan khác.
Áp lực tăng áp lực tĩnh mạch cửa làm cho chất lỏng rỉ ra và đọng lại trong khoang bụng. Đây được gọi là cổ trướng.
Một bệnh gan tự miễn dịch phát triển khi hệ thống miễn dịch của chính bạn nhầm lẫn các mô khỏe mạnh bình thường với một cơ thể lạ. Kết quả là, hệ thống miễn dịch tấn công các tế bào gan khỏe mạnh (như với AIH) hoặc các tế bào ống mật (PSC, PBC).
Khối u là sự phát triển bất thường của các tế bào hoặc mô. Một số khối u là ác tính hoặc ung thư. Những người khác là lành tính, hoặc không phải ung thư.
Ung thư ống mật (ung thư đường mật) là sự hình thành các khối u ác tính (ung thư) trong các ống hoặc ống dẫn này.
Ung thư là sự phát triển và lan rộng của các tế bào không lành mạnh trong cơ thể.
Khi xơ gan trở nên tồi tệ hơn, gan sẽ có ít mô khỏe mạnh hơn. Nếu bệnh xơ gan không được điều trị, gan sẽ bị suy và không thể hoạt động tốt hoặc không thể hoạt động được.
Nhiều dạng bệnh gan đi kèm với các dạng biến chứng khác nhau liên quan đến sự tiến triển của nó.
Chẩn đoán bệnh gan có thể bao gồm các xét nghiệm chức năng gan, sinh thiết gan và các hình thức chẩn đoán hình ảnh tiên tiến hơn.
Bệnh gan nhiễm mỡ là tình trạng lượng mỡ dư thừa được tích trữ bên trong tế bào gan khiến gan hoạt động khó khăn hơn.
Hội chứng Gilbert là một rối loạn di truyền nhẹ, trong đó gan không xử lý đúng một chất gọi là bilirubin. Bilirubin được tạo ra do sự phân hủy của các tế bào hồng cầu.
Đồng nhiễm HCV/HIV có nghĩa là một người nhiễm cả hai loại virus cùng một lúc. Cứ 100 người nhiễm HIV thì có khoảng 21 người trong số họ cũng bị nhiễm HCV.
Hemochromatosis là một tình trạng di truyền trong đó cơ thể hấp thụ và dự trữ quá nhiều chất sắt tích tụ trong một số cơ quan, đặc biệt là gan và có thể gây ra tổn thương nghiêm trọng.
Bệnh não gan (HE), đôi khi được gọi là bệnh não cửa chủ hoặc PSE, là một tình trạng gây ra tình trạng suy giảm chức năng não tạm thời ở những người mắc bệnh gan tiến triển.
Vi-rút viêm gan A (HAV) thường tự khỏi trong hầu hết các trường hợp mà không có biến chứng nghiêm trọng. Tuy nhiên, HAV có thể khiến một số bệnh nhân bị suy gan.
Khoảng 95% người lớn tiếp xúc với vi-rút Viêm gan B (HBV) sẽ hồi phục hoàn toàn trong vòng 6 tháng (cấp tính) mà không cần dùng thuốc. Khoảng 5% mắc bệnh này suốt đời (mãn tính) trừ khi họ được điều trị thành công.
Viêm gan C là một loại vi rút ảnh hưởng đến gan. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây ra suy gan và bệnh gan giai đoạn cuối và là nguyên nhân chính của các ca ghép gan ở Hoa Kỳ.
Viêm gan Delta (HDV) là một trong một số bệnh nhiễm trùng có thể gây tổn thương gan. (Những người khác bao gồm viêm gan A, B, C). HDV gây hại cho tế bào gan gây viêm (sưng).
Ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư phổ biến nhất ở người lớn ở Hoa Kỳ. Hầu hết những người bị ung thư biểu mô tế bào gan đều có nhiều cụm tế bào ung thư nhỏ được gọi là nốt sần.
Hội chứng gan thận (HRS) là một tình trạng đe dọa tính mạng ảnh hưởng đến chức năng thận ở những người mắc bệnh gan tiến triển.
Mặc dù nó đã được báo cáo sớm nhất là khi thai được 5 tuần, nhưng phổ biến hơn là nó bắt đầu trong tam cá nguyệt thứ ba, khi nồng độ hormone ở mức cao nhất.
Vàng da là vàng da và mắt. Nó là kết quả của việc có quá nhiều bilirubin trong máu. Bilirubin là một chất màu vàng được tạo ra từ sự phân hủy của các tế bào hồng cầu.
Sự thiếu hụt lysosomal acid lipase ảnh hưởng đến khả năng cơ thể sản xuất loại enzyme này cần thiết để phân hủy chất béo và cholesterol. Khi thiếu LAL, chất béo sẽ tích tụ và dẫn đến bệnh gan và tim.
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) là sự tích tụ thêm chất béo trong tế bào gan không phải do rượu gây ra.
NASH có xu hướng phát triển ở những người thừa cân hoặc béo phì, hoặc mắc bệnh tiểu đường, cholesterol cao hoặc chất béo trung tính cao. Tuy nhiên, một số người bị NASH ngay cả khi họ không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào.
Tìm thông tin cụ thể về bệnh, câu chuyện bệnh nhân, video, hoạt động, tài nguyên giáo dục và hơn thế nữa! Truy cập trang web trực tuyến với tư cách là phụ huynh, thanh thiếu niên hoặc trẻ em để xem thông tin phù hợp với lứa tuổi.
Một số bệnh về gan không phổ biến và hiếm khi xảy ra, nhưng khi chúng xảy ra, cần có một đội ngũ lành nghề để chẩn đoán và điều trị.
Viêm gan siêu vi là tình trạng gan bị viêm do nhiễm siêu vi. Nó có thể biểu hiện ở dạng cấp tính như một bệnh nhiễm trùng gần đây với thời gian khởi phát tương đối nhanh, hoặc ở dạng mãn tính.
Bệnh Wilson khiến cơ thể giữ lại lượng đồng dư thừa. Gan của người mắc bệnh Wilson không giải phóng đồng vào mật như bình thường.